Bài Viết

Các câu hỏi hay về văn học

  • Sự khác nhau cơ bản giữa tác giả dân gian và tác giả văn học thành văn?
  • Văn bản được coi là tác phẩm đầu tiên về Hà Nội?
  • Bài thơ được coi là “Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên” của tổ quốc ta do ai viết?
  • Vị vua nào đã làm hai câu thơ: “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá.
  • Người ta tạo ra vận mệnh chứ không phải vận mệnh tạo ra con người” là câu nói nổi tiếng của ai?
  • Vân Đài loại ngữ”, bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam được biên soạn bởi?
  • Nhà thơ … đã ví: “Thân em như quả mít trên cây”
  • Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã mượn hình ảnh loài hoa nào để miêu tả nàng Kiều?
  • Thúy Kiều mang họ gì?
  • Khi gặp Thúy Kiều thì Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều cái gì?

Bình Luận (21)

Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.

Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi

Tác gải dân gian là tác phầm được lưu truyền trong nhân dân , truyền qua bằng miệng , có nhiều dị bản , cũng như không rõ tác giả

Tác giả văn học thành văn là tác phẩm chỉ viết bởi 1 tác giả đã xác định , chỉ có một bản duy nhất 

Quá sâu sắc, quá sâu lặng, quá chấn động, nghe xong là mê liền~

Đó là Thiên đô chiếu, tức Chiếu Dời đô của vua Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).
Trong tập tuyển thơ Ngàn năm thương nhớ (tuyển thơ Thăng Long- Hà Nội 1010 - 2010) rất công phu, dày hơn 2000 trang do nhà văn Gia Dũng biên soạn, Chiếu Dời đô là bài thơ được xếp đầu tiên. Và trong Lời nói đầu của tuyển tập thơ này, nhà văn Gia Dũng cũng viết: "Chiếu Dời đô là bài thơ đầu tiên của tổ tiên ta viết về Thăng Long - Hà Nội, và đến muôn đời sau, mãi mãi Chiếu Dời đô vẫn là bài thơ đẹp nhất, hay nhất, trữ tình nhất về Thăng Long - Hà Nội"
 

Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.

Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi

Tác gải dân gian là tác phầm được lưu truyền trong nhân dân , truyền qua bằng miệng , có nhiều dị bản , cũng như không rõ tác giả

Tác giả văn học thành văn là tác phẩm chỉ viết bởi 1 tác giả đã xác định , chỉ có một bản duy nhất 

1Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.

Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi

2Đó là Thiên đô chiếu, tức Chiếu Dời đô của vua Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).
Trong tập tuyển thơ Ngàn năm thương nhớ (tuyển thơ Thăng Long- Hà Nội 1010 - 2010) rất công phu, dày hơn 2000 trang do nhà văn Gia Dũng biên soạn, Chiếu Dời đô là bài thơ được xếp đầu tiên. Và trong Lời nói đầu của tuyển tập thơ này, nhà văn Gia Dũng cũng viết: "Chiếu Dời đô là bài thơ đầu tiên của tổ tiên ta viết về Thăng Long - Hà Nội, và đến muôn đời sau, mãi mãi Chiếu Dời đô vẫn là bài thơ đẹp nhất, hay nhất, trữ tình nhất về Thăng Long - Hà Nội"

3Nam Quốc Sơn Hà - Lý Thường Kiệt
 
4Vua Trần Nhân Tông
 
5 nhà bác học Lê Qúy Đôn
 
 

 

Tác gải dân gian là tác phầm được lưu truyền trong nhân dân , truyền qua bằng miệng , có nhiều dị bản , cũng như không rõ tác giả Tác giả văn học thành văn là tác phẩm chỉ viết bởi 1 tác giả đã xác định , chỉ có một bản duy nhất

Câu thơ "Xã tắc hai phen chồn ngựa đá. Non sông ngàn thủa vững âu vàng" được sáng tác bởi vị vua Lê Thánh Tông trong lễ mừng thắng trận cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ III.

Người ta tạo ra vận mệnh chứ không phải vận mệnh tạo ra con người” là câu nói nổi tiếng của nhà bác học Lê Qúy Đôn

Bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam được biên soạn bởi Lê Quý Đôn là tác phẩm “Vân Đài Loại Ngữ”. Tác phẩm này viết bằng chữ Hán vào năm 1773 và được xem như một loại “bách khoa thư”, đồ sộ nhất thời Trung đại Việt Nam. Nội dung của tác phẩm bao gồm các tri thức về triết học, khoa học, văn học, được sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội

Nhà Thơ: Hồ Xuân Hương Thân em như quả mít trên cây Da nó xù xì, múi nó dầy Quân tử có thương thì đóng cọc, Xin đừng mân mó, nhựa ra tay.

Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã mượn hình ảnh loài hoa nào để miêu tả nàng Kiều.

nàng Thuý Kiều sinh ra trong gia đình nhà họ Vương. Nàng

Khi gặp Thúy Kiều, Kim Trọng đã trao cho cô ấy món kỷ vật

 

 

Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.

Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi

tác phẩm đầu tiên của hÀ NỘI LÀ Đó là Thiên đô chiếu, tức Chiếu Dời đô của vua Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).

Nam quốc sơn hà, được cho là do Lý Thường Kiệt sáng tác vào năm 1076, trước thềm trận chiến chống quân Tống xâm lược.

Vị vua Trần Nhân Tông đã làm hai câu thơ: 

                  “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá.

                   Non sông ngàn thủa vững âu vàng”

“Người ta tạo ra vận mệnh chứ không phải vận mệnh tạo ra con người” là câu nói nổi tiếng của nhà bác học Lê Qúy Đôn"

Được soạn bởi Lê Qúy Đôn

Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người ta hay đỏ mặt, dù bà chỉ miêu tả con ốc, quả mít, hay cái quạt. Ví như bài thơ về “Quả mít”. “Thân em như quả mít trên cây/Vỏ nó xù xì da nó dày/Quân tử có thương thì đóng cọc/Xin đường mân mó nhựa ra tay

Trong Truyện Kiều, hai lần khác, Nguyễn Du dùng “hoa lê” để chỉ chính Thúy Kiều. Đó là khi nàng chiêm bao thấy Đạm Tiên báo mộng cho Thúy Kiều về kiếp đoạn trường, nàng khóc nức nở và bà mẹ tỉnh dậy hỏi Cớ sao trằn trọc canh khuya/Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa.

 

 

 

 

 

Thuý Kiều họ Vương

Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.

Đó là Thiên đô chiếu, tức Chiếu Dời đô của vua Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).
Trong tập tuyển thơ Ngàn năm thương nhớ (tuyển thơ Thăng Long- Hà Nội 1010 - 2010) rất công phu, dày hơn 2000 trang do nhà văn Gia Dũng biên soạn, Chiếu Dời đô là bài thơ được xếp đầu tiên. Và trong Lời nói đầu của tuyển tập thơ này, nhà văn Gia Dũng cũng viết: "Chiếu Dời đô là bài thơ đầu tiên của tổ tiên ta viết về Thăng Long - Hà Nội, và đến muôn đời sau, mãi mãi Chiếu Dời đô vẫn là bài thơ đẹp nhất, hay nhất, trữ tình nhất về Thăng Long - Hà Nội".
 

that bo ich 10diem

 

that bo ich   cam on ban

 

  • Sự khác nhau cơ bản giữa tác giả dân gian và tác giả văn học thành văn?
  • Văn bản được coi là tác phẩm đầu tiên về Hà Nội?
  • Bài thơ được coi là “Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên” của tổ quốc ta do ai viết?
  • Vị vua nào đã làm hai câu thơ: “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá.
  • Người ta tạo ra vận mệnh chứ không phải vận mệnh tạo ra con người” là câu nói nổi tiếng của ai?
  • Vân Đài loại ngữ”, bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam được biên soạn bởi?
  • Nhà thơ … đã ví: “Thân em như quả mít trên cây”
  • Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã mượn hình ảnh loài hoa nào để miêu tả nàng Kiều?
  • Thúy Kiều mang họ gì?
  • Khi gặp Thúy Kiều thì Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều cái gì?

các câu hỏi rất bổ ích

 

Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.

Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.

Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi

tác phẩm đầu tiên của hÀ NỘI LÀ Đó là Thiên đô chiếu, tức Chiếu Dời đô của vua Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).

Nam quốc sơn hà, được cho là do Lý Thường Kiệt sáng tác vào năm 1076, trước thềm trận chiến chống quân Tống xâm lược.

Vị vua Trần Nhân Tông đã làm hai câu thơ: 

                  “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá.

                   Non sông ngàn thủa vững âu vàng”

“Người ta tạo ra vận mệnh chứ không phải vận mệnh tạo ra con người” là câu nói nổi tiếng của nhà bác học Lê Qúy Đôn"

Được soạn bởi Lê Qúy Đôn

Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người ta hay đỏ mặt, dù bà chỉ miêu tả con ốc, quả mít, hay cái quạt. Ví như bài thơ về “Quả mít”. “Thân em như quả mít trên cây/Vỏ nó xù xì da nó dày/Quân tử có thương thì đóng cọc/Xin đường mân mó nhựa ra tay

Trong Truyện Kiều, hai lần khác, Nguyễn Du dùng “hoa lê” để chỉ chính Thúy Kiều. Đó là khi nàng chiêm bao thấy Đạm Tiên báo mộng cho Thúy Kiều về kiếp đoạn trường, nàng khóc nức nở và bà mẹ tỉnh dậy hỏi Cớ sao trằn trọc canh khuya/Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa.

đáp án của câu hỏi này chính là Thúy Kiều mang họ Vương. Sau khi chương trình lên sóng, nhiều khán giả lục tìm lại Truyện Kiều và rõ ràng, đáp án nằm ở ngay phần đầu của tác phẩm: "...

Khi gặp Thúy Kiều, Kim Trọng trao cho vật gì làm tin?
Đáp án: Chiếc khăn hồng
 câu hỏi của bạn đã được giải đáp !!! câu hỏi rất hay và bổ ít 

 

Cac cau hoi rat hay

  • Văn học dân gian là những tác phẩm được lưu truyển bởi nhân dân, truyền bằng miệng, có nhiều dị bản, không rõ tác giả. Tác phẩm văn học thành văn là tác phẩm chỉ viết bởi một tác giả đã xác định và chỉ có 1 bản duy nhất.
  • Hà Nội băm sáu phố phường - là tập bút kí đầu tiên về Hà Nội với đề tài ẩm thực/được xuất bản năm 1943.
  • Nam Quốc Sơn Hà - là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, lưu truyền là của Lý Thường Kiệt, được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta.
  • Vua Trần Nhân Tông - đã làm ra hai câu thơ "xã tắc hai phen chồn ngựa đá..."
  • Người ta tạo ra vận mệnh chứ không phải vận mệnh tạo ra con người -  đây là câu nói nổi tiếng của nhà bác học Lê Quý Đôn.
  • Văn Đài Loại Ngữ được soạn bởi Lê Quý Đôn, hoàn thành năm 1773.
  • Nguyễn Văn Hiệp - là nhà thơ đã ví "thân em như quả mít trên cây"
  • Trong "Truyện Kiều" Nguyễn Du đã mượn hình ảnh loài hoa Hải Đường để miêu tả nàng Kiều.
  • Thúy Kiều mang họ Vương.
  • Khi gặp Thúy Kiều thì Kim Trọng đã trao cho nàng mọt kỷ vật.