Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.
Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi
Tác gải dân gian là tác phầm được lưu truyền trong nhân dân , truyền qua bằng miệng , có nhiều dị bản , cũng như không rõ tác giả
Tác giả văn học thành văn là tác phẩm chỉ viết bởi 1 tác giả đã xác định , chỉ có một bản duy nhất
Quá sâu sắc, quá sâu lặng, quá chấn động, nghe xong là mê liền~
Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.
Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi
Tác gải dân gian là tác phầm được lưu truyền trong nhân dân , truyền qua bằng miệng , có nhiều dị bản , cũng như không rõ tác giả
Tác giả văn học thành văn là tác phẩm chỉ viết bởi 1 tác giả đã xác định , chỉ có một bản duy nhất
1Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.
Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi
Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.
Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi
tác phẩm đầu tiên của hÀ NỘI LÀ Đó là Thiên đô chiếu, tức Chiếu Dời đô của vua Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).
Nam quốc sơn hà, được cho là do Lý Thường Kiệt sáng tác vào năm 1076, trước thềm trận chiến chống quân Tống xâm lược.
Vị vua Trần Nhân Tông đã làm hai câu thơ:
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá.
Non sông ngàn thủa vững âu vàng”
“Người ta tạo ra vận mệnh chứ không phải vận mệnh tạo ra con người” là câu nói nổi tiếng của nhà bác học Lê Qúy Đôn"
Được soạn bởi Lê Qúy Đôn
Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người ta hay đỏ mặt, dù bà chỉ miêu tả con ốc, quả mít, hay cái quạt. Ví như bài thơ về “Quả mít”. “Thân em như quả mít trên cây/Vỏ nó xù xì da nó dày/Quân tử có thương thì đóng cọc/Xin đường mân mó nhựa ra tay
Trong Truyện Kiều, hai lần khác, Nguyễn Du dùng “hoa lê” để chỉ chính Thúy Kiều. Đó là khi nàng chiêm bao thấy Đạm Tiên báo mộng cho Thúy Kiều về kiếp đoạn trường, nàng khóc nức nở và bà mẹ tỉnh dậy hỏi Cớ sao trằn trọc canh khuya/Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa.
hay quá
kho qua
Thuý Kiều họ Vương
Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.
that bo ich 10diem
that bo ich cam on ban
các câu hỏi rất bổ ích
Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.
Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng do con người sáng tạo ra trong khi tham gia các sinh hoạt tập thể nhằm biểu đạt, ghi lại những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm về cuộc sống xã hội và thiên nhiên, vũ trụ nên khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên tác giả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không hề tạo nên thói quen ấy. Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.
Tác giả văn học thành văn là những sáng tác của nhà văn ghi lại thành văn bản; phân biệt với văn học truyền khẩu, được lưu danh và biết đến rộng rãi
tác phẩm đầu tiên của hÀ NỘI LÀ Đó là Thiên đô chiếu, tức Chiếu Dời đô của vua Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).
Nam quốc sơn hà, được cho là do Lý Thường Kiệt sáng tác vào năm 1076, trước thềm trận chiến chống quân Tống xâm lược.
Vị vua Trần Nhân Tông đã làm hai câu thơ:
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá.
Non sông ngàn thủa vững âu vàng”
“Người ta tạo ra vận mệnh chứ không phải vận mệnh tạo ra con người” là câu nói nổi tiếng của nhà bác học Lê Qúy Đôn"
Được soạn bởi Lê Qúy Đôn
Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người ta hay đỏ mặt, dù bà chỉ miêu tả con ốc, quả mít, hay cái quạt. Ví như bài thơ về “Quả mít”. “Thân em như quả mít trên cây/Vỏ nó xù xì da nó dày/Quân tử có thương thì đóng cọc/Xin đường mân mó nhựa ra tay
Trong Truyện Kiều, hai lần khác, Nguyễn Du dùng “hoa lê” để chỉ chính Thúy Kiều. Đó là khi nàng chiêm bao thấy Đạm Tiên báo mộng cho Thúy Kiều về kiếp đoạn trường, nàng khóc nức nở và bà mẹ tỉnh dậy hỏi Cớ sao trằn trọc canh khuya/Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa.
đáp án của câu hỏi này chính là Thúy Kiều mang họ Vương. Sau khi chương trình lên sóng, nhiều khán giả lục tìm lại Truyện Kiều và rõ ràng, đáp án nằm ở ngay phần đầu của tác phẩm: "...
Cac cau hoi rat hay
câu hỏi rất hay